Gia quyến Đường Thái Tông

Hậu phi

  1. Quý phi Vi Khuê (貴妃韋珪, 597 - 665), sinh ra Kỷ vương Lý ThậnLâm Xuyên công chúa.
  2. Quý phi Dương thị (贵妃杨氏), con là Triệu vương Lý Phúc.
  3. Đức phi Yến thị (德妃燕氏, 609 - 671), sinh ra Việt Kính vương Lý Trinh và Giang Thương vương Lý Hiêu.
  4. Hiền phi Trịnh thị (賢妃鄭氏), được an táng tại Chiêu lăng.
  5. Thứ phi Dương thị (次妃杨氏), sinh ra Ngô vương Lý Khác và Thục Điệu vương Lý Âm (李愔).
  6. Thứ phi Âm thị (次妃陰氏), sinh ra Tề vương Lý Hựu.
  7. Hiền phi Từ Huệ (賢妃徐惠, 627 - 650), mất ít lâu sau khi Thái Tông băng hà, được truy tặng Hiền phi (賢妃) và an táng tại Chiêu lăng.
  • Tần:
  1. Chiêu nghi Mỗ thị (昭儀某氏, 601 - 682), không rõ danh tính, an táng tại Chiêu lăng.
  2. Chiêu dung Vi Ni Tử (韦尼子), con gái Vi Khuông Bá (韦匡伯), em họ của Vi Quý phi.
  3. Tần không rõ họ (下嫔某氏), mẹ sinh Dự Chương công chúa.
  • Ngự thê:
  1. Tiệp dư Mỗ thị (婕妤某氏), không rõ danh tính, an táng tại Chiêu lăng.
  2. Tiệp dư Dương thị (婕妤楊氏), con gái thứ ba của Dương Cung Đạo (楊恭道)[4].
  3. Mỹ nhân Tiêu thị (美人蕭氏), con gái Tiêu Thước (蕭鑠).
  4. Tài nhân Thôi thị (才人崔氏), con gái của Thôi Hoành Đạo (崔宏道).
  5. Tài nhân Tiêu thị (才人蕭氏), con gái Tiêu Khanh (蕭鏗).
  6. Tài nhân Võ thị (才人武氏), ban tên hiệu là Mị (媚).
  • Nữ quan và Cung nhân:
  1. Tam phẩm Cung nhân Chu thị (三品宮人周氏), bồi táng Chiêu lăng.
  2. Tam phẩm Vong cung Kim thị (三品亡宮金氏; 625 - 688), bồi táng Chiêu lăng[5].
  3. Vong cung Ngũ phẩm Mỗ thị (亡宮五品某氏; ? - 657), bồi táng Chiêu lăng.
  4. Tam phẩm Vong ni Mỗ thị (三品亡尼某氏), xuất gia làm ni sư, bồi táng Chiêu lăng.
  5. Thất phẩm Điển đăng (七品典燈), bồi táng Chiêu lăng.
  • Tình phụ không được công nhận:
  1. Sào Lạt vương phi Dương thị (巢剌王妃楊氏), vợ của Sào Lạt vương (nguyên là Tề vương) Lý Nguyên Cát. Sinh ra Tào Cung vương Lý Minh.
  2. Đao nhân Cao Huệ Thông (高惠通; 597 - 626), người Bột Hải, cháu gái của Cao Thành Tịnh (高成并), con gái của Mật Châu, Cao Mật huyện lệnh Cao Thế Đạt (高世达) thời nhà Tùy.
  3. Cung nhân không rõ họ, vốn là thiếp của Lư Giang vương Lý viện (李瑗).
  4. Vương thị (王氏), sinh Tương vương Lý Uẩn.

Hoàng tử

  1. Thường Sơn Quận vương → Trung Sơn Quận vương → Hoàng thái tử Lý Thừa Càn [李承乾], mẹ là Văn Đức hoàng hậu. Năm 644, do mắc tội mưu phản mà bị phế làm thứ dân, sau khi mất được khôi phục lại làm Thường Sơn Mẫn Vương (恆山愍王)[6].
  2. Sở vương Lý Khoan [楚王李寬; 610 - 620], mẹ không rõ, mất sớm.
  3. Trường Sa Quận vương → Hán Trung Quận vương → Thục vương → Ngô vương Lý Khác (吳王李恪; 619 - 653), mẹ là Dương phi, con gái Tùy Dạng đế. Bị kết tội tạo phản, phế làm thứ dân. Về sau được tặng làm Uất Lâm Quận vương (鬱林郡王).
  4. Nghi Đô Quận vương → Vệ vương → Việt vương → Ngụy vương Lý Thái [魏王李泰; 619 - 652], mẹ là Văn Đức Hoàng hậu. Sau bị giáng làm Đông Lai Quận vương (東來郡王), rồi Thuận Dương Quận vương (順陽郡王). Khi chết truy tặng làm Bộc Cung vương (濮恭王).
  5. Nghi Dương Quận vương → Sở Vương → Yên vương → Tề vương Lý Hựu [齊王李祐; ? - 643], mẹ là Âm phi, sau mắc tội bị phế làm thứ dân.
  6. Lương Vương → Thục vương Lý Âm [蜀王李愔; ? - 667], mẹ là Dương Phi. Bị cho là cùng Ngô Vương Lý Khác mưu phản nghịch nên bị biếm làm thứ dân. Sau truy tặng làm Phù Lăng Quận vương (涪陵郡王), rồi Thục Điệu vương (蜀悼王).
  7. Đàm vương → Tưởng vương Lý Uẩn [蔣王李惲; ? - 674], mẹ là Vương Cung nhân.
  8. Hán vương → Nguyên vương → Việt Kính vương Lý Trinh [越敬王李貞; 627 - 688], mẹ là Yến Đức phi. Sau phản Võ Tắc Thiên, thua trận bị chết, bị Võ Tắc Thiên đổi họ Hủy (虺氏), đến niên hiệu Thần Long được phục hồi quan tước.
  9. Tấn vương → Hoàng thái tử → Đường Cao Tông Lý Trị, mẹ là Văn Đức Hoàng hậu.
  10. Thân vương → Kỷ vương Lý Thận [紀王李慎; 628 - 689], mẹ là Vi Quý phi. Vì lý do Việt vương Lý Trinh có sự, bị Võ hậu đổi họ 「Hủy」, đến niên hiệu Thần Long được phục hồi quan tước.
  11. Giang Thương vương Lý Hiêu [江殤王李囂; ? - 633], mẹ là Yến Đức phi, mất sớm.
  12. Đại vương Lý Giản [代王李簡; ? - 632], mẹ không rõ, chết sớm.
  13. Triệu vương Lý Phúc [趙王李福; 635 - 670], mẹ là Dương Quý phi.
  14. Tào Cung vương Lý Minh [曹恭王李明], mẹ nguyên là vợ của Lý Nguyên Cát, tức Sào Vương phi Dương thị.

Hoàng nữ

Đường Thái Tông có 21 con gái[7]:

  1. Tương Thành công chúa (襄城公主; ? - 651), lấy Tiêu Duệ (蕭銳), sau lại lấy Khương Giản (姜簡).
  2. Nhữ Nam công chúa (汝南公主), chết sớm.
  3. Nam Bình công chúa (南平公主; ? - 650), lấy Vương Kính Trực (王敬直), sau lại lấy Lưu Huyền Ý (劉玄意).
  4. Toại An công chúa (遂安公主), lấy Đậu Quỳ (竇逵), sau lại lấy Vương Đại Lễ (王大禮).
  5. Trường Lạc công chúa (長樂公主; 621 - 643), tên gọi Lý Lệ Chất (李麗質), mẹ là Văn Đức Hoàng hậu, lấy Trưởng Tôn Xung (長孫沖).
  6. Dự Chương công chúa (豫章公主), lấy Đường Nghĩa Đức (唐義識).
  7. Ba Lăng công chúa (巴陵公主; ? - 653), lấy Sài Lệnh Vũ (柴令武), sau bị ép tự sát, truy phong làm Tỉ Cảnh công chúa (比景公主).
  8. Đức Lăng công chúa (德陵公主), lấy Sử Nhân Biểu (史仁表).
  9. Đông Dương công chúa (東陽公主), lấy Cao Lý Hành (高履行).
  10. Lâm Xuyên công chúa (臨川公主; 624 - 682), biểu tự Mạnh Khương (孟姜), mẹ là Vi Quý phi, lấy Chu Đạo Vũ (周道務).
  11. Thanh Hà công chúa (清河公主; 624 - 664), tên gọi Lý Kính (李敬), biểu tự Đức Hiền (德賢), lấy Trình Hoài Lượng (程懷亮).
  12. Lan Lăng công chúa (蘭陵公主; ? - 658), tên gọi Lý Thục (李淑), biểu tự Lệ Trinh (麗貞), lấy Đậu Hoài Chiết (竇懷悊).
  13. Tấn An công chúa (晉安公主), lấy Vi Tư An (韋思安), sau lại lấy Dương Nhân Lộ (楊仁輅).
  14. An Khang công chúa (安康公主), lấy Độc Cô Mưu (獨孤謀).
  15. Tân Hưng công chúa (新興公主), lấy Trưởng Tôn Hy (長孫曦).
  16. Thành Dương công chúa (城陽公主), mẹ là Văn Đức Hoàng hậu, lấy Đỗ Hà (杜荷), sau lấy Tiết Quán (薛瓘). Con trai là Tiết Thiệu (薛紹) sau này lấy Thái Bình công chúa.
  17. Cao Dương công chúa (高阳公主), lấy Phòng Di Ái (房遺愛), sau bị ép phải tự sát, truy phong làm Hợp Phổ công chúa (合浦公主).
  18. Kim Sơn công chúa (金山公主), chết sớm.
  19. Tấn Dương công chúa (晉陽公主; 633 - 644), nhũ danh Hủy Tử (兕子), biểu tự Minh Đạt (明達), mẹ là Văn Đức Hoàng hậu. Mất khi lên 12 tuổi.
  20. Thường Sơn công chúa (常山公主), sự tích không rõ, mất khoảng năm Hiển Khánh.
  21. Tân Thành công chúa (新城公主; 634 - 663), mẹ là Văn Đức Hoàng hậu, trước lấy Trưởng Tôn Thuyên (長孫詮), sau lại lấy Vi Chánh Củ (韋正矩).